Thư gửi từ cối xay gió của tôi


Thư gửi từ cối xay gió của tôi

Alphonse Daudet là một văn sĩ Pháp vào thế kỷ thứ 19. Sanh tại Nime, miền Nam nước Pháp vào ngày 13 tháng 5 năm 1840. Ông bắt đầu viết từ năm 14 tuổi, 18 tuổi cho ra thi phẩm đầu tiên.

Văn phong của Daudet giản dị, nhưng lưu lại cho độc giả những cảm giác nhẹ nhàng, lắng sâu với những câu chuyện kể như chuyện cổ tích, với các nhân vật mà độc giả cảm thấy rất gần gũi. Thế nên các tác phẩm đầu đời của ông được liệt vào khuynh hướng thiên nhiên, còn các tác phẩm sau thuộc vào trường phái hiện thực. Ông diễn tả sự việc một cách xác thực, mà không yếm thế, hay có giọng văn mỉa mai, tàn bạo như các đồng nghiệp cùng thời trước sự thay đổi quá nhanh của thời cuộc.

Ông mất năm 1897 tại Paris.

Tập truyện “ Thư viết từ cối xay gió “ (Lettres de mon Moulin) là những mẩu chuyện ngắn với những hình ảnh thật hiền hòa, dễ thương của đồng quê: cái cối xây, cánh đồng xanh, suối chảy róc rách, đêm đầy sao, cùng những người chân chất, thật thà, cậu bé chăn dê, ông già Cornille bám vào cái cối xay cuối cùng vào thời kỳ mà những máy xay lúa bằng hơi tới thay các máy xay bằng gió của nhiều thế hệ qua.


Dầu không có thiên tài của một nhà sáng tạo lớn, Alphonse Daudet có đủ phẩm chất của một người viết truyện ngắn nhà nòi, và một văn phong “làm cho ta thấy, cho ta sống và cho ta cảm khoái”.



* Dọn đến nhà mới 

"Bầy thỏ quả là đã sửng sốt!... Bấy lâu nay, thấy cổng cối xay đóng im ỉm, cỏ mọc lấn chân tường và nền nhà, thỏ ta cứ ngỡ cái giống người xay bột thế là đã tuyệt diệt, chẳng còn ai. Và, thấy được chỗ tốt, chúng bèn biến nó thành một đại bản doanh, một trung tâm hoạt động chiến lược: cái cối xay Jemmáp của bầy thỏ... Đêm đầu tiên tôi đến đây, thật chẳng dám nói ngoa, có tới hai chục chú thỏ ngồi quây tròn trên nền nhà xay đang duỗi cẳng sưởi ánh trăng lọt vào... Cánh cửa trên mái vừa hé mở thì frrựt!... Đám quân đồn trú tán loạn và cả một bầy mông thỏ trắng phơi ra, cong đuôi chạy biến vào bụi rậm. Tôi rất mong chúng quay lại. Có một gã cũng hết sức sững sờ khi thấy tôi: đó là gã ở thuê trên tầng thứ nhất, một con cú già hiểm độc, đầu cúi xuống trầm tư như một nhà tư tưởng đã thường trú tại chiếc cối xay này hơn hai chục năm nay. Tôi đã bắt gặp gã trong căn buồng trên gác; gã đứng không nhúc nhích, sừng sững trên trục cái cối xay, giữa đống gạch ngói tả tơi rơi rụng xuống. Gã trợn tròn mắt ngó tôi một lát, rồi hốt hoảng vì không nhận ra tôi là ai, gã cất tiếng kêu: “Hu! Hu! ” và uể oải giũ đôi cánh xám bụi.

Những nhà tư tưởng kì quái, có bao giờ họ chải chuốt!... Cũng chẳng sao! Với cái dáng điệu như vậy, với cặp mắt nhấp nháy và bộ mặt khó đăm đăm, gã ở thuê lầm lì này lại làm tôi ưa hơn ai khác và tôi vội ra hạn hợp đồng thuê nhà cho gã. gã lại giữ nguyên như cũ cả cái tầng trên chiếc cối xay có lối thông ra mái, còn tôi thì giành cho mình tầng dưới, trong một căn buồng hẹp quét vôi trắng, thấp và xây vòm cuốn như nhà ăn tu viện. Chính từ chỗ này đây mà tôi viết thư cho bạn, cánh cửa lớn mở toang đón ánh mặt trời ấm áp. Một khu rừng thông xinh đẹp chói chang ánh sáng chạy thoai thoải trước mặt tôi đến tận chân đèo. Phía chân trời in hình những đỉnh nhọn dãy Alpi... Không một tiếng động... Xa xa văng vẳng tiếng sáo, tiếng chim mỏ nhát trong búi oải hương, tiếng nhạc la trên đường cái quan... Tất cả cảnh vật nên thơ xứ Prôvăngxơ này chỉ sống nhờ ánh sáng. Bạn tính, như vậy thì giờ đây làm sao tôi luyến tiếc được cái thành phố Pari ầm ĩ và tối tăm? Tôi mới thật dễ chịu trong chiếc cối xay của tôi chứ! Thật là tuyệt, cái nơi mà tôi hằng tìm kiếm: một góc nhỏ không gian ngào ngạt hương thơm và ấm áp, cách xa hàng ngàn dặm với báo chí, với ngựa xe, với sương mù... Và còn biết bao cái tốt đẹp ở quanh tôi. Mới đến đây chưa đầy tám ngày mà đầu óc tôi đã chan chứa cảm xúc và những điều ghi nhớ mãi. Này nhé! Vừa chiều hôm qua thôi, tôi đã chứng kiến cảnh đàn gia súc trở về một trang trại dưới chân đèo và xin thề với bạn rằng tôi không đời nào chịu đem cảnh tượng này đổi lấy tất cả những buổi trình diễn lần đầu những vở mới trong tuần ở các rạp hát Pari đâu. Bạn cứ thử ngẫm mà xem.

Cần phải nói với bạn rằng, ở xứ Prôvăngxơ, thường cứ đến mùa nóng là người ta lùa súc vật lên núi Anpơ. Vật và người sống giữa trời, cỏ ngập đến tận bụng, suốt năm sáu tháng liền trên vùng cao, rồi vừa gợn heo may đầu thu là người ta xuống núi trở lại các trang trại và bầy súc vật lại quay về gặm cỏ thảnh thơi trên những trái đồi màu xám sực nức hương mê điệt... Thế là chiều qua đàn cừu đã trở về. Từ sáng sớm, cổng trang trại đã mở toang hai cánh đón chờ, chuồng nào chuồng ấy đã đầy ắp rơm tươi. Chốc chốc, người ta kháo nhau: “Lúc này họ đã tới Âyghie”. “Lúc này, họ đã ở Parađu”. Rồi thình lình vào buổi chiều, vang lên một tiếng reo to: “Họ kia rồi! ” và từ xa, chúng tôi thấy đàn cừu tiến lại trong đám bụi mù rạng rỡ. Cả con đường cái quan tuồng như cũng rình rịch theo bước đi của chúng... Đi đầu là những con cừu đực già, sừng giương ra phía trước, vẻ hoang dã; đằng sau cúng là đông đảo họ nhà cừu; những cừu mẹ dáng hơi mệt nhọc, cừu con chạy quanh dưới chân, những con la cái cài hoa bông đỏ đung đưa theo nhịp bước đựng những chú cừu non mới đẻ, rồi đến những con chó đẫm mồ hôi, lưỡi thè lè sát đất và sau cùng là hai ông mãnh chăn cừu lực lưỡng trùm chiếc áo khoác bằng len thô màu đỏ hoe dài chấm gót như chiếc áo thụng. Tất cả cùng tưng bừng diễu qua mặt chúng tôi rồi chìm ngập vào sau cổng lớn, sầm sập như trời đổ mưa rào... Hãy xem cảnh trang trại xốn xang đến thế nào. Những con ngỗng lớn màu xanh lam và vàng óng, màu như vải lưới, đậu ngất nghểu trên cây sào cao nhận ra những kẻ mới trở về và cất tiếng kèn chào rầm rĩ. Nhà gà đang ngủ giật nảy mình thức giấc. Hết thảy đều bật dậy: nào chim câu, nào vịt, nào gà tây, gà Nhật Bản. Cả đàn gia cầm như hóa rồ, hóa dại; đám gà mái bàn nhau thức thâu đêm!... Cứ như mỗi con cừu đã mang theo về trong bộ lông của nó cùng với hương vị hoang dã của núi Anpơ một chút khí trời của cao nguyên làm hết thảy đều ngây ngất và muốn nhảy múa.

Đàn cừu trở về chuồng trong cảnh tưng bừng náo nhiệt ấy. Còn gì thú vị bằng cái việc sắp xếp nơi ăn chốn ở này. Lũ cừu đực già xúc động thấy lại máng ăn cũ của chúng. Còn bầy cừu con, những con vật bé tí teo mới sinh ra trong cuộc hành trình, chưa bao giờ biết đến trang trại thì ngơ ngơ ngác ngác ngó quanh. Nhưng cảm động nhất vẫn là nhìn đàn chó, những con chó canh cừu dũng cảm đang còn bận tíu tít bên những con cừu của chúng như chả cần biết đến ai trong trang trại ngoài những con vật đó nữa. Mặc cho con chó giữ nhà lên tiếng gọi từ trong cũi, mặc cho chiếc thùng đầy tràn nước giếng trong, mát rượi ra hiệu chào mời, đàn chó vẫn bưng tai, bịt mặt cho đến khi bầy súc vật vào hết trong chuồng, chiếc then ngang to tướng cài vào cánh cửa nhỏ có chấn song và những chàng chăn cừu yên vị đâu đấy quanh chiếc bàn ăn ở một căn phòng thấp. Chỉ đến lúc ấy chúng mới chịu về cũi và tại đây vừa tợp tợp chậu xúp, chúng vừa kể cho lũ bạn ở nhà nghe chúng đã làm gì trên núi cao, ở một vùng âm u có chó sói và những bông hoa đèn lồng đại đỏ thắm ứ đầy sương."



Những vì sao 
(Alphonse Daudet) 


Trong thời gian chăn súc vật tại Luberon, tôi đã trải qua nhiều tuần liên tiếp không trông thấy một bóng hình, chỉ một mình tôi trên cánh đồng xanh với chú chó Labri, và đàn súc vật. Thỉnh thoảng tôi có nom thấy một ẩn sĩ sống vùng Mont de L’ure đi ngang qua để kiếm, chắc để tìm kiếm các vật dụng cần thiết. Vài khi tôi cũng gặp mấy khuôn mặt đen nghịt của những người phu mỏ vùng Piémont; nhưng tất cả đều có dáng vẻ dửng dưng, lặng lờ. Có lẽ vì sống đời cô độc quen rồi, họ đánh mất bản tính thích chuyện trò của loài người. Họ cũng chẳng màng biết đến bất cứ câu chuyện thời sự nào đang được bàn tán trong những làng hay tại các thành phố dưới đồng bằng.

Thế nên, cứ mỗi mười lăm ngày, khi được nghe từ trên con đường đi lên núi, tiếng chuông của chú lừa mang thực phẩm định kỳ, rồi dần dần trên sườn núi xuất hiện cái đầu cậu bé lon ton của nông trại, hay bộ tóc hung đỏ của dì Norade, tôi vui mừng quá đỗi. Tôi bắt họ kể những tin tức mới từ miền dưới, như các buổi lễ rửa tội cho trẻ con và những đám cưới. Nhưng điều tôi tha thiết nhất, vẫn là những gì mới lạ xảy ra chung quanh cô con gái ông chủ, cô Stéphanette, nhan sắc nhất vùng. Làm bộ như chẳng mấy lưu tâm, thật ra tôi nhặt nhanh tin tức về cô, nào là cô có đi dự tiệc nhiều không, có bao nhiêu chàng trai mới đeo đuổi cô … Và, nếu có ai hỏi tôi những điều như thế có ích lợi gì cho tôi, một tên chăn cừu nghèo trên đầu núi, thì tôi sẽ trả lời rằng tôi đã 20 tuổi rồi, và cô Stéphanette, trong mắt tôi là người đẹp nhất trên đời mà tôi được biết.

Một sáng chủ nhật nọ, trong lúc ngóng lương thực cho nửa tháng tới, tôi bỗng nhận ra nó đến trễ hơn thường lệ. Lúc sáng tôi đã nhủ thầm: “Chắc tại nhà thờ có buổi lễ lớn”, đến trưa, trời đổ cơn giông, tôi lại đóan chắc tại con lừa không chịu cất bước vì đường chắc xấu lắm. Cuối cùng, chừng ba tiếng đồng hồ nữa, trời quang tạnh, cả vùng núi ướt mưa sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, tôi nghe xen giữa tiếng nước rỏ tí tách từ đầu các ngọn lá và tiếng nước chảy tràn của con suối, tiếng chuông reo vui của chú lừa đầy nhiệt huyết, tựa như tiếng chuông ngày lễ Phục Sinh.

Thế nhưng không phải là cậu bé lon ton của nông trại, cũng chẳng phải là bà già Norade cưỡi chú lừa như mọi khi. Mà là … bạn thử đoán xem là ai nào? Cô tiểu thư của chúng ta đấy, trời ạ, cô nàng bằng xương bằng thịt, ngồi ngay ngắn giữa những giỏ mây, đôi má ửng hồng vì khí núi và cơn mưa giông vừa qua. “Thằng bé bị bệnh, dì Norade đi nghỉ mát tại nhà mấy người con”, người đẹp Stéphanette báo tin ấy cho tôi khi cô tuột khỏi lưng con lừa, và cô đến trễ vì bị lạc đường.

Trông cách phục sức của cô nàng, áo đẹp ngày Chủ Nhật, với khăn buột tóc cột thành hoa, váy ren lộng lãy, hình như cô đến chậm vì còn mãi dừng chân đó đây, nhảy nhót tại buổi tiệc nào đó, chứ không có vẻ gì là bị lạc lối lung tung với các bụi rậm ven đường. Ồ, thật là một tạo vật mỹ miều! Ðôi mắt tôi không ngắm cô không biết chán. Quả thật, tôi chảng bao giờ có dịp nhìn cô gần đến thế! Thỉnh thoảng vào mùa đông, có khi đoàn súc vật bị lạc xuống đồng, tôi vào trại để ăn buổi tối, cô đi ngang qua phòng ăn rất vội, dường như không bao giờ chuyện trò với những người làm công, dáng điệu lúc nào cũng hơi xa cách, thoáng chút kiêu kỳ. Vậy mà bây giờ, nàng đang hiện diện trước mặt tôi đây, cho riêng mình tôi thôi, có điên đầu không chứ?

Sau khi trút thực phẩm trong cái làn mây ra, Stéphanette bắt đầu tò mò nhìn chung quanh cô. Nhẹ nhàng nàng chéo váy đẹp lên, cô bước vào không gian của tôi, cô muốn xem chỗ tôi ngủ, cái khoảng đệm rơm phủ da cừu, cái áo choàng tôi móc lên tường, cây thập giá, viên đá lửa nhồi. Tất cả những vật đó khiến cô thú vị.

- À, thì ra anh sống ở đây, anh chăn cừu tội nghiệp của tôi ơi? Làm sao để anh khỏi phải buồn chán, một mình nơi đây? Anh làm gì? Anh nghĩ đến điều gì?

Tôi rất muốn trả lời: “Tôi nghĩ đến cô đó, cô chủ nhỏ à”. Quả thật tôi không nói láo đâu, nhưng lúc này lòng rất đỗi xao xuyến, tôi cứ im như thóc vì không tìm được câu đáp nào. Hình như cô nàng cũng nhận biết thế, và cô bé lấy làm thích thú một cách dễ ghét. Cô càng muốn khiến tôi thêm bối rối với những câu hỏi tinh nghịch như:

- “Thế cô bạn gái của anh thì sao, anh chăn cừu, cô có thỉnh thoảng lên thăm anh không? … Có lẽ cô sẽ cưỡi con dê bằng vàng, hay nhờ phép thần thông của tiên nữ Estérelle, chỉ khẽ nhún chân một cái là tới núi thôi …

Cô có ngờ đâu chính cô mới giống nàng tiên Esterelle, với tiếng cười dòn vui tươi, mái đầu nghiêng nghiêng, cùng sự vội vàng ra đi của cô cho tôi cảm giác buổi viếng thăm của cô như thể là cô là nàng tiên vậy.

- Chào anh chăn cừu nhé!

- Chào cô chủ nhỏ.

Và rồi cô ra đi, đem theo những chiếc giỏ mây trống trơn.

Khi bóng cô khuất trên lối mòn lưng núi, tôi có cảm giác như những hòn cuội, lăn từ chân chú lừa, rớt từng viên một trên trái tim tôi. Tôi còn nghe mãi tiếng lăn của chúng thật lâu, thật lâu; và cho đến cuối ngày tôi vẫn như mơ, như mộng, không dám đọng cựa, sợ rằng chúng biến khỏi giấc mơ của tôi.

Khi chiều xuống, đáy thung lũng một màu xanh thẫm, những con cừu xúm xít lại với nhau, cất tiếng kêu đàn trên đường về chỗ ngủ, tôi chợt nghe tiếng ai gọi mình từ lưng núi. Rồi tôi thấy cô tiểu thư của chúng ta xuất hiện, hết dáng điệu vui tươi lúc ban ngày, mà cô đang run lảy bảy vì lạnh, vì sợ, thân hình ướt đẫm. Chuyện là trên đường về, khi qua con suối ngập nước vì cơn bão, cô bé đã nhất quyết lội qua, suýt nữa bị cuốn đi. Khổ thân cô, giờ này không có cách nào về lại nông trại. Ði băng qua núi, chắc một mình cô không tìm được lối, còn tôi thì không thể bỏ đàn cừu được. Ý nghĩ phải ngủ qua đêm ở nơi này làm cô băn khoăn, nét lo lắng hiện rõ. Còn tôi, chỉ biết cố hết sức trấn an cô:

- Tháng Bảy, đêm rất ngắn, cô chủ à .. CÔ phải trải qua một chút bực mình nhỏ thôi mà!

Tôi vội vàng nhóm một ngọn lửa lớn để hong áo cho cô, và sưởi ấm đôi chân ướt lạnh vì lội qua suối. Rồi tôi đem thức ăn tới cho cô, gồm sữa và những khoanh phô mách nhỏ, nhưng cô bé đáng thương không màng ăn uống hay sưởi ấm. Nhìn nước mắt cô tuôn rơi, tôi cũng muốn khóc theo luôn.

Lúc này đêm đã hầu như khắp nơi. Chỉ còn lại trên đỉnh núi một chút bụi ánh sáng, một làn khói mờ nhạt nơi chân trời. Tôi mời cô tiểu thư vào nằm nghỉ ngơi trong túp lều bé nhỏ của tôi. Trên ổ rơm mới thay, tôi đã trải một bộ da khác, rồi tôi chúc cô ngủ ngon, và ra ngoài ngồi canh cửa. Chúa chứng giám lòng tôi, dù ngọn lửa tình yêu đang cháy nóng tâm can, không một ý nghĩ xấu xa nào len vào tâm tôi, chỉ có niềm kiêu hãnh vô bờ khi nghĩ đến trong góc nhỏ của khu đồng xanh trên núi này, giữa đám cừu tò mò nhìn cô bé đang ngủ, cô con gái của ông chủ, nàng như một con bê quý giá và trắng ngần, yên tâm nằm nghĩ dưới sự canh thức của tôi. Chưa bao giờ tôi cảm thấy bầu trời sâu thăm thẳm như đêm nay, và các vì sao sáng thế!

Bỗng nhiên cửa lều mở, và cô nàng xinh đẹp Stéphanette xuất hiện! Hóa ra cô bé không ngủ được vì đàn cừu cựa quậy, xao động trên đống rơm, đôi khi lại cất tiếng kêu be he nho nhỏ trong giấc mơ của chúng. Cô bảo cô thích ngồi gần ngọn lửa hơn. Tôi vội khoác lên vai cô tấm khăn choàng bằng lông cừu của tôi, và chúng tôi ngồi im lắng bên nhau.

Nếu bạn có lúc nào trải qua một đêm dưới bầu trời vằng vặc đầy sao, bạn sẽ biết là vào giờ mọi người đang yên giấc, một thế giới huyền bí đang mở ra trong cô đơn và thinh lặng. Lúc ấy, tiếng suối reo vui và thanh thoát nhất, những chiếc mặt hồ tĩnh mịc và thánh thót hơn. Mọi linh hồn của núi tự do bay lượn, không khí chuyển động, những ân thanh lúc bình thường ta không cảm nhận được, hình các thân cây đang lớn lên và đám cỏ đang vươn cao hơn. Ban ngày là đời sống của sinh vật, nhưng ban đêm thuộc về các thực vật. Khi chưa quen, người ta có cảm giác sợ hãi … Thế nên, cô tiểu thư của chúng tôi run lập cập và lại ngồi sát thêm vào tôi, mỗi khi có tiếng động bất chợt vang lên. Có tiếng kêu dài, buồn bã, phát sinh từ mặt ao sáng lung linhn, gợn sóng nhấp nhố từ phía dưới, vọng lên tận chỗ chúng tôi ngồi, vừa đúng lúc một ngôi sao xẹt băng qua trên đầu chúng tôi, như thể tiếng thán mà chúng tôi vừa nghe được, đem theo cùng với nó một làn ánh sáng vậy.

- Cái gì thế? Stéphannette thì thào hỏi tôi.

- Cô chủ à, một linh hồn vừa vào thiên đàng.

Và tôi làm dấu thánh giá. Cô cũng làm dấu thánh giá, mặt ngước nhìn lên bầu trời, nét mặt đầy cảm khái. Rồi cô nói:

- Có thật vậy không, anh chăn cừu, các anh có phải là phù thủy, những người có lối sống khác với người thường như chúng tôi?

- Không phải vậy đâu, cô chủ ạ. Nhưng vì chúng tôi sống ở núi cao, gần các vì sao hơn, nên chúng tôi biết nhiều điều xảy ra hơn là người sống dưới đồng bằng.

Mặt cô vẫn đăm đăm nhìn lên trời, tay chống cầm, mình khoác tấm chăn cừu, trông cô giống như một thiên thần chăn chiên vậy.

- Nhiều sao ghê! Thật đẹp quá! Chưa bao giờ tôi thấy nhiều sao như thế! Anh chăn cừu à, anh có biết tên của chúng không?

- Biết chứ cô chủ! Này, ngay trên đầu chúng ta là giải Ngân Hà, con đường của thánh Jacques. Ông ta đi từ nước Pháp thẳng đến xứ Tây Ban Nha. Chính Thánh Jacques de Galice đã vẽ đường cho người hùng Charlemagne đi đánh trận với quân Sarrasins. Xa hơn tí, cô thấy kìa chiếc xe ngựa chở linh hồn (sao Hùng) với bốn cái trục sáng chói. Ba ngôi sao đi đằng trước là ba con thú, và ngôi sao bé tí là người cưỡi xe. Cô có thấy chung quanh chúng một loạt ngôi sao rơi rụng xuống không? Ấy là những linh hồn mà Thượng Ðế không muốn chúng đến cạnh Ngài. Xa hơn chút nữa, là ngôi sao của Ba Vuạ, là ngôi sao dùng làm đồng hồ cho những người như chúng tôi. Chỉ cần nhìn chúng, là tôi biết bây giờ đã quá nửa đêm rồi! Ðàng xa nữa, phía ngôi sao hôm, là sao Jean de Milan, ngọn đuốc của các vì tinh tú. Giới chăn cừu chúng đã truyền miệng câu chuyện như thế này: Một đêm nọ, anh chàng Jean de Milan, cùng ba vị vua và ngôi sao Văn Học được mời đến dự đám cưới của người bạn chung. Sao Văn Học gấp gáp đi trước, vì thế vì nó nằm ở vị trí cao nhất. Nhìn trên xa kìa, tận trên đỉnh trời cao đó. Ba ông vua nằm phía dưới, đang theo đuôi chàng Văn Học, còn cậu lười biếng Jean de Milan, vì ngủ dạy trễ nằm tận cuối cùng. Cậu tức giận, bèn ném cây gậy lên. Vì thế vì sao “Ba Vua” còn được gọi là “Cây Gậy của chàng Jean de Milan” . .. Nhưng mà cô chủ à, ngôi sao đẹp nhất trong các vì sao, là sao của chúng tôi, “ Ngôi sao của những người chăn cừu “, mọc lên để soi đường lúc tờ mờ bình minh, khi chúng tôi lùa đàn cừu ra đồng, và lúc hoàng hôn xuống chúng tôi đem cừu về. Chúng tôi gọi nói là cô nàng Maguelonne. Nàng Maguelonne chạy theo chàng Thổ Tinh, và cứ bảy năm lại làm đám cưới với chàng một lần.

- Thôi đi anh chăn cừu, các vì sao mà cũng làm đám cưới à?

- Ðúng thế đấy, cô chủ à!

Ðúng lúc tôi cố tìm cách giải thích cho cô hiểu thế nào là đám cưới của các vì sao thì tôi cảm thấy một vât gì vừa mát lại vừa êm, nhẹ nhàng đặt lên vai tôi. Ðó là đầu cô chủ, mệt mỏi ngả đầu và thiếp trên vai tôi, trong tiếng xột xoạt dễ thương đăng ten, cùng mái tóc quăn của cô. Cô tựa người vào tôi như thế, yên ả, cho đến khi màu tro nhạt trên bầu trời tan biến vào tia mặt trời đầu ngày. Tôi nhìn cô ngủ, lòng xao xuyến, nhưng may được các vì thánh che chở trong buổi tối an lành này, với toàn ý nghĩ thật đẹp đẽ. Chúng quanh chúng tôi, các vì sao tiếp tục cuộc hành trình lặng lẽ, ngoan ngoãn như một đàn cừu khổng lồ. Bỗng nhiên tôi cảm thấy như một vì sao trong số đó, vì sao xinh đẹp nhất, rực rỡ nhất, đã lạc đường, sa xuống vai tôi mà ngủ yên lành.


(Trần Viết Minh Thanh chuyển dịch)
Nguồn : http://www.khanhhoaonline.net/modules.php?name=Forums&file=viewtopic&p=2767

Copied by Windrunner†

1 Nhận xét

Để lại vài dòng comment góp vui nhé...

Cảm ơn các bạn !

Đăng nhận xét
Mới hơn Cũ hơn